Trong lịch sử ngoại khoa, có lẽ chưa có sự thay đổi trang thiết bị nào ảnh hưởng đến phương pháp giải phẫu sâu sắc như phẫu thuật nội soi. Ngay cả các động tác phẫu thuật căn bản như: bóc tách, khâu, cột chỉ v.v…cũng thay đổi hoàn toàn so với phẫu thuật kinh điển vì được thực hiện qua dụng cụ với sự quan sát trên màn hình, thay vì thực hiện bằng tay trong một không gian ba chiều. Năm 1987 Mouret tại Pháp đã thực hiện trường hợp cắt túi mật qua nội soi đầu tiên trên Thế giới, thì tại Mỹ vẫn chưa có trường hợp cắt túi mật nào được thực hiện qua nội soi, mãi đến năm 1992 đã có tới 80% các trường hợp cắt túi mật được thực hiện bằng kỹ thuật nội soi ổ bụng tại Mỹ. 
Phẫu thuật qua nội soi đã thực sự là một cuộc cách mạng trong ngành phẫu thuật. Trong những năm qua đã có một sự bùng nổ về phẫu thuật nội soi vì những ưu điểm rất lớn của kỹ thuật này: Hậu phẫu nhẹ nhàng, thời gian nằm bệnh viện ngắn và tính thẩm mỹ cao v.v…
Sự phát triển của phẫu thuật nội soi đã phải trải qua một quãng thời gian khá dài. Ngay từ thời Hippocrates (năm 460-375 T.C.N) các thầy thuốc đã cố gắng tìm mọi cách để quan sát các lỗ và các hốc tự nhiên của cơ thể. Hippocrates, ông tổ của ngành Y, đã dùng một dụng cụ để banh trực tràng khi thăm khám. Archigenes, một Bác sĩ người Sirya (95-117 TCN) đã sáng chế ra dụng cụ thăm khám âm đạo. Điều rõ ràng là các dụng cụ này thô sơ và không đủ ánh sáng nên không thể đưa sâu vào bên trong các cơ quan để quan sát. Do đó, suốt 2.000 năm qua, kỹ thuật nội soi không phát triển được.
Albukasim (936 –1013), một thầy thuốc người Ả Rập là người đầu tiên dùng ánh sáng phản chiếu để quan sát cổ tử cung. Năm 1600, Peter Borell, người Pháp đã chế ra gương lõm để phản chiếu và hội tụ ánh sáng vào cơ quan cần quan sát. Sau đó Arnaud, một Bác sĩ sản khoa đã dùng đèn lồng để quan sát cổ tử cung. Tuy nhiên, phải đến đầu thế kỷ thứ 19, kỹ thuật nội soi mới bắt đầu phát triển cho đến ngày hôm nay nhờ vào 3 bước đột phá quan trọng: 
- Bước đột phá thứ nhất: là sự phát minh ra bóng đèn đốt nóng bằng dây tóc của Thomas Edison và sự phát triển của hệ thống thấu kính dùng cho kính soi vào thập niên 1870-1880.
- Bước đột phá thứ hai: là sự phát minh ra hệ thống thấu kính hình que của Hopkins vào cuối thập niên 1950 cùng với sợi quang dẫn truyền ánh sáng lạnh vào đầu thập niên 1960.
- Bước đột phá thứ ba: chính là sự phát triển của các mini-camera (máy quay phim nhỏ) có vi mạch điện toán vào thập niên 1980.
Ưu điểm
Phẫu thuật nội soi (Endoscopic Surgery). Với đường mỗ ngắn, thành bụng bị xâm phạm ít nên còn được gọi là Phẫu thuật xâm phạm tối thiểu (Minimally Invasive Surgery). Phẫu thuật nội soi thực hiện được là nhờ có Video nên còn có tên Phẫu thuật có Video trợ giúp (Video-assisted Surgery). Ưu điểm của phương pháp phẫu thuật nội soi là:
- Vết mổ nhỏ có tính thẩm mỹ: Thay vì mở vết mổ rộng, dài như trong phương pháp mỗ mở, trong phương pháp phẫu thuật nội soi các bác sĩ chỉ cần rạch đường mổ ngắn khoảng 1cm để đưa camera vào và 2-3 lỗ để đưa dụng cụ vào, do đó sau khi hồi phục, sẹo vết mỗ nhỏ có tính thẫm mỹ cao hơn phương pháp mỗ hở rất nhiều. 
- Hình ảnh được phóng đại, độ chính xác cao: Những hình ảnh trên vùng mổ được quan sát qua màn hình với độ phóng đại 10 lần cho phép quan sát rõ mô cũng như những mạch máu, giúp ích cho các phẫu thuật ở sâu, thao tác ở những phẫu trường hẹp. Những hình ảnh được ghi hình liên tục trong suốt quá trình phẫu thuật được nhiều người cùng quan sát, nhận định và hội ý với phẫu thuật viên. Quá trình này giúp giảm thiểu những nhận định chủ quan. Việc lưu lại hình ảnh trong quá trình phẩu thuật còn giúp ích cho việc nghiên cứu khoa học. 
- Thời gian nằm viện ngắn: Phẫu thuật nội soi giúp cho bệnh nhân nhanh hồi phục, giảm thời gian nằm viện, ít đau sau mổ, tính thẩm mỹ cao. 
- Giảm các biến chứng sau mổ: Ngoài ra còn giảm các biến chứng như nhiễm trùng vết mổ, thoát vị thành bụng, dính ruột sau mổ....Chính điều này phẩu thuật nọi soi còn gọi là phẩu thuật xâm hại tối thiểu. 
Phẫu thuật nội soi ngày nay đang được phát triển rộng trong nhiều lĩnh vực ngoại khoa, sản phụ khoa, không những can thiệp các cơ quan trong ổ bụng mà ngay cả các cơ quan trong lồng ngực, các ổ khớp, vùng cổ, tai mũi họng …